Nằm trên núi Sái - một trong 7 ngọn núi thiêng thuộc dãy Thất Diệu Sơn, đền Sái (thôn Thụy Lôi, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội) là nơi thờ Đức thánh Huyền Thiên Trấn Vũ - một trong bốn vị thần trấn giữ Thăng Long, người có công giúp vua An Dương Vương diệt trừ Bạch Kê Tinh để xây thành Cổ Loa.
Tương truyền, sau khi dời đô về Thăng Long, vua Lý Công Uẩn đã tới đây xin rước bài vị Đức thánh Huyền Thiên Trấn Vũ và lập đền thờ ngài tại kinh thành Thăng Long, lấy tên là đền Quán Thánh - một trong “Thăng Long tứ trấn”.
Hai bên sân phía trước đền Sái là hai ao hình tròn, được gọi là ao Tiên. Bước qua 15 bậc đá, du khách sẽ tới nghi môn gồm 5 cửa: Ở giữa là 3 cổng chính, rộng, được xây kiểu chồng diêm 2 tầng, 8 mái; hai bên là 4 trụ biểu. Hai cổng phụ hai bên nhỏ, có mái che và 2 trụ biểu nhỏ.
Qua nghi môn là tới gác chuông cao 2 tầng, được xây theo kiểu chồng diêm, 8 mái. Công trình này được phục dựng năm 1989. Trên gác treo quả chuông đúc vào thời vua Thành Thái (triều Nguyễn, trị vì từ năm 1889 đến 1907). Tiếp đó là tòa Kính thiên, chính giữa có tấm bia “Huyền Thiên Đạo Quán” niên đại Chính Hòa thứ 22, năm Tân Tỵ (1701). Bốn mặt bia khắc chữ, ca ngợi cảnh đẹp vùng núi Sái, lịch sử và công đức của Đức thánh Huyền Thiên Trấn Vũ.
Sau tòa Kính thiên là nhà tiền tế và chính điện. Chính điện có mặt bằng kiểu chữ “Công”, gồm tiền đường, thiêu hương và hậu cung. Tiền đường đã được dựng lại theo lối kiến trúc cổ. Hậu cung là công trình được bảo tồn gần như nguyên vẹn với gạch lát nền từ thời Lê, chính giữa là bức tượng Huyền Thiên Trấn Vũ làm bằng đất, sơn son thếp vàng, có chiều cao 2,25m, đường kính 0,9m. Trong đền hiện còn lưu giữ nhiều di vật, đồ thờ có từ thế kỷ XVII - XVIII. Phía sau đền là chùa Sái, tạo thành một quần thể phối thờ theo lối “tiền thần, hậu phật”.
Ngoài những nét đặc sắc về kiến trúc, đền Sái còn được biết đến với Lễ hội rước vua giả (ngày 11 tháng Giêng hằng năm) cùng những phong tục cổ truyền độc đáo được bảo tồn, lưu giữ đến ngày nay.
Có giá trị về nhiều mặt, đền Sái đã được xếp hạng Di tích lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc cấp quốc gia năm 1986.
Thủy Hương